Top 4 Bài văn phân tích tác phẩm “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn hay nhất

Bài văn phân tích tác phẩm “Dọn về làng” số 4

Bài thơ được viết sau chiến thắng giải phóng biên giới, một chiến thắng có ý nghĩa đối với cuộc kháng chiến chống Pháp: mở thông chiến khu với các nước xã hội chủ nghĩa. Song bài thơ không đi vào ý nghĩa chính trị ấy. Ở đây, bài thơ nói về ý nghĩa giải phóng đối với cuộc đời của bà con người dân tộc. 

Ý nghĩa toát ra từ bài thơ qua bút pháp kể chuyện, miêu tả. Tác giả không dùng bút pháp chính luận. Nét đặc sắc đầu tiên là giọng kể: chất phác, sinh động, cụ thể. Mở đầu là một Hình ảnh tiêu biểu của chiến thắng được đặc tả chân thật và độc đáo:

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn 

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn 

Người đông như kiến, súng đầy như củi.

Suốt bài vẫn giữ nguyên được cách kể và cách nghĩ ấy. Các chi tiết đời sông vị hồn nhiên, tự nhiên và rất đậm dấu ấn cách tư duy cụ thể của bà con dân tộc ít người. Ngày chiến thắng như ngày hội nên “người đông như kiến” Cách ví ấy là phổ cập. Nhưng “súng đầy như củi” cách ví này là đặc thù của con dân tộc miền núi, ở kề với rừng, nơi củi rất quen thuộc trong đời sống. Người quen dùng bếp ga chắc không có cách ví von này.

Bố cục bài thơ sát với kiểu tư duy của người dân thường. Sau tiếng reo là sự ai những cay cực khi giặc chiếm đóng và cuối cùng là quang cảnh sinh hoạt của bây giờ, của giải phóng. Người đọc, ngay cả người ít học miền rừng, ách bố cục này tiếp nhận bài thơ sẽ rất dễ dàng. Đặc điểm nổi bật của bài thơ này là cách diễn tả các chi tiết. 

Cảnh chạy giặc: quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy, rồi đường đi lại vắt bám, rồi gió bão sấm sét, cây đổ, cay đắng đủ mùi… Rồi cảnh giặc càn: nó đốt, nó vét, mẹ địu em, bà bị loà mắt… Diễn biến tình cảm của người con trước cái chết bi thương và anh dũng của người cha.Tác giả mượn lời người con kể chuyện cũng là giãi bày nổi lòng (tự sự kết với trữ tình):

Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc 

Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín ”, con im 

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng 

Con cởi áo liệm thân cho bố

Người chết thảm, người sống cũng thảm, cảnh sống cùng cực đau đớn đã lên cao trào dâng sôi sục. Giải phóng đã thành một yêu cầu bức xúc của mỗi người dân. Đánh giặc là đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cực khổ ấy. Bài thơ có nhiều chi tiết và hay nhất là những chi tiết ở đoạn cuối – quang cảnh dọn về làng và cảnh sinh hoạt ở bản làng sau ngày giải phóng:

Người nói cỏ lay trong rừng rậm 

Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con 

Đường cái kêu vang tiếng ô tô 

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ 

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.

Khung cảnh lam làm no ấm… Từng nét từng nét hiện dần lên. Tác giả vẫn không bình luận hay ca ngợi lộ liễu. Ông cứ tả. Tả thoáng mà đủ. Mỗi mặt cuộc sống chỉ nói bằng một nét, rất gợi: Người nói cỏ lay là cảnh ruộng rẫy, khói bếp bay trên mái nhà lá là cảnh thanh bình no ấm. Tiếng ô tô, tiếng cười con trẻ cho thấy cái đông vui ríu rít của bản làng… Có những chi tiết rất sắc sảo gợi được thần thái núi rừng và nếp sống đồng bào, hơn thế còn có ý vị thiết tha

Hổ không dám đến đẻ con trong vườn chuối 

Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng.

Giải phóng đã đồng nghĩa với sự trở về tất yếu của quy luật đời sống: vật nào vào chỗ ấy, quả chín do tay người.

Kể chuyện mà vẫn bộc lộ được cảm xúc cá thể. Chi tiết nhiều mà không rậm, trái lại mỗi chi tiết như một nét khắc: cụ thể nhưng khái quát. Đây không chỉ là kết quả một quan sát công phu, mà là kết quả của sự từng trải. Tác giả sống với các chi tiết đó, thấm thía về nó. Chất thơ ở đây là chất của đời sống. 

Bài thơ, do vậy cho thây một nét đặc sắc của thơ kháng chiến chống Pháp: miêu tả hiện thực rộng lớn và nỗi riêng tư của tác giả hoà đồng vào hiện thực đó.

Bài văn phân tích tác phẩm “Dọn về làng” số 5

Đọc bài văn Dọn về làng, người đọc như cảm nhận được không khí hào hùng của dân tộc sau ngày chiến thắng. Bài thơ được sáng tác trong chiến dịch Biên giới Thu – Đông 1950, thể hiện khí thế hào hùng của dân tộc và là một món ăn tinh thần tiếp thêm sức mạnh vô biên cho dân tộc, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta.

Bài thơ Dọn về làng được sáng tác trong chiến dịch Biên giới Thu – Đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951, tại Đại hội liên hoan thanh niên và học sinh thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên tạp chí Châu Âu.

Bài thơ đã mang đến một luồng sinh khí mới, một cuộc sống tươi đẹp cho đồng bào giữa lúc chiến tranh ác liệt. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc- – Lạng. Ngay từ những câu mở đầu của bài thơ, tác giả đã cho người đọc hình dung chiến thắng huy hoàng của quân ta và sự thất bại ê chề của quân giặc:

“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng đầy như củi”.

Trong chiến dịch Biên giới quân ta đã dành được những thắng lợi hết sức vẻ vang. Gọng kím đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói lên thật hay sức mạng và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.

Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn. Trên bước đường trở về làng cũ để “sủa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại:

“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi”.

Trong những ngày loạn lạc, phải tản cư ra vùng không có giặc, người con ấy đã phải quên đi những lễ tết lâu đời. Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải qua bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi”.

Khi đã đánh tan quân giặc, người dân sẽ không phải chứng kiến những cảnh đau thương đó nưa, nhung quên sao được những kỉ niêm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, địch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:

“Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến lùng,

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi

Nớ vơ hết áo quần trong túi…”

Qua những ngòi bút miêu tả của tác giả cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp được tái hiện lại. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nảy – Bà lòa mắt không biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt Gian, cha đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man:

“Súng liền nổ ngay cùng một loạt,  

Cha ngã xuống nằm trên mặt đất”.

Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:

“Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi chôn cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,                             

Con cởi áo liệm thân cho bố,                             

Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng                             

Máu đầy tay, nước mắt tràn đầy…”

Trong chiến tranh ác liệt, những cái chết diễn ra thường xuyên và dù họ quyết tử cho tổ quốc, cho nhân dân, nhưng những người ở lại vẫn rất đau lòng. Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên:                         

“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn.                             

Băm xương thịt mày, tao mới hả”.

Đoạn thơ thể hiện được ý chí đánh giặc kiên cường của dân tộc, quân giặc dù có hung tàn đến đâu nhưng không thể khuất phục được nhân dân, không làm nhụt chí khí sôi sục của dân tộc. Những tháng ngày đau khổ đã qua đi, thay vào đó là niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng.

Có tiếng “cười vang”, tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”, có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu:                             

“Hôm nay, Cao – Bắc – Lạng cười vang,                             

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng.                             

Người nói cỏ lay trong rừng rậm                             

Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con”.

Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ “không” (Không biết lối đi, cha không biết nói rồi, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở hai đoạn, điệp ngữ “không” bốn lần xuất hiện để làm nổi bật hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – Lạng. Đó là sự hồi sinh sự sống sau những tháng ngày tăm tối. Cuộc sống tươi đẹp, ấm lo thực sự đã trở lại với người dân nơi đây:

“-Từ nay không ngập cỏ lối đi

– Hổ không dám đến để con trong vườn chuối.

 – Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng

 – Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng”.

Những câu thơ cuối bài thơ là lời chào mẹ của người con trước khi lên đường đi đánh giặc. Lời chào đó đã gắn với lời hứa quyết tâm chiến thắng quân giặc đem lại sự bình yên cho dân tộc và trở về phụng dưỡng người mẹ già của mình.

“Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”.

Bài thơ đã để lại cho chúng ta nhiều cảm xúc, làm tái hiện lại khí thế hào hùng của dân tộc trong ngày chiến thắng, những mất mát đau thương mà dân tộc đã trải qua và sự quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương đất nước của nhân dân. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng người đọc, như một liều thuốc tiếp thêm sức mạnh cho lòng yêu nước của dân tộc.

Bài văn phân tích tác phẩm “Dọn về làng” số 3

Nông Quốc Chấn (18 tháng 11 năm 1923 – 4 tháng 2 năm 2002) là một nhà văn người dân tộc Tày, ông là một trong những gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức dân tộc thiểu số trưởng thành trong kháng chiến. Đóng góp chủ yếu của Nông Quốc Chấn cho nền văn học Việt Nam đó là thơ, với những cảm xúc chân thành mộc mạc, lời thơ toát lên hơi thở riêng biệt trong lối tư duy và diễn đạt của dân tộc miền núi, hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên và mang đậm chất núi rừng Tây Bắc.

Năm 1950, chiến dịch biên giới thu đông kết thúc thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hòa vào niềm vui chung của của bà con nhân dân miền núi và nhân dân cả nước nhà thơ Nông Quốc Chấn đã chắp bút cho tác phẩm Dọn về làng viết về quê hương của tác giả trong những năm tháng chiến đấu đau thương mà anh dũng, đồng thời nêu lên những ý nghĩa của kháng chiến thắng lợi đối với đời sống cũng như con người Tây Bắc.

Sau khi kháng chiến biên giới thu đông năm 1950 kết thúc thắng lợi bà con dân tộc Tày hớn hở, vui mừng dọn về làng trong niềm hân hoan hòa cùng với niềm vui chung của cả dân tộc, điều ấy thể hiện rất rõ ràng trong những vần thơ đầu. 

“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng 

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn 

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn 

Người đông như kiến, súng dày như củi.”

Sự phấn khởi, hân hoan tràn ngập trong những vần thơ, đó là lời người con sung sướng báo tin với người mẹ “Mẹ! Cao-Lạng hoàn toàn giải phóng”, kết quả của cuộc chiến được diễn tả bằng hình ảnh sống động, đậm lối tư duy, diễn đạt của người miền núi, một vẻ rất chất phác, rất hồn hậu. Trong suy nghĩ của họ bọn “Tây bị chết, bị bắt sống” nhiều lắm không phải là một con số cụ thể mà trong cách liên tưởng của người con đó phải tính là “hàng đàn”, đông như đàn trâu, đàn bò họ vẫn thường chăn dắt. 

Hình ảnh vệ quốc quân tiến vào chiếm lại các đồn cũng được mô tả bằng các hình ảnh “đông như kiến”, vũ trang tầng tầng lớp lớp như thanh “củi” thân thuộc mà họ vẫn thường đi rừng kiếm về. Cao Bằng, Lạng Sơn đã giải phóng, quê hương đã yên bình, đối với mỗi người dân miền núi là niềm hạnh phúc khôn tả.

Cuối cùng họ cũng có thể trở lại ngôi làng yêu dấu để “sửa nhà phát cỏ/Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai”, để được vui vầy cuộc sống ấm êm, để được hưởng niềm vui trọn vẹn trong những dịp tết tháng Giêng, rằm tháng 7. Sau tin báo chiến thắng Nông Quốc Chấn đã theo dòng hồi tưởng về những tháng ngày kháng chiến đầy gian khổ trong quá khứ.

“Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, 

quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi lại khe, 

cay đắng đủ mùi 

Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi 

Cơn gió bão trên rừng cây đổ 

Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa 

Ðường đi lại vắt bám đầy chân.”

Nỗi vất vả chạy giặc của nhân dân miền núi được Nông Quốc Chấn miêu tả rất thực tế và sinh động, vội chạy giặc đến mức chẳng còn màng được đến tết nhất, vượt đèo lội suối “hết núi lại khe”, phải nói là “cay đắng đủ mùi”. Những hôm trời nắng đường đi dẫu có chông gai cũng chẳng kinh hoàng bằng những hôm trời đổ mưa “mịt mù”, con người giữa thiên nhiên rộng lớn, phải chống chọi với bão tố, mưa sa, chống chọi với sự giận dữ của thiên nhiên nào là “cơn gió bão trên rừng cây đổ”, nào là những “cơn sấm sét” xé toang trời, lệch đất làm chiếc lán mới vừa dựng xong đã vội đổ. 

Đôi chân trần leo hết núi hết đồi, dẫm quanh sỏi đá, nhẵn mòn lối đi, lại gặp cả lài loài vắt hút máu, nghĩ mà rùng mình không thôi. Ai đã gây nên nỗi khốn khổ vượt núi băng rừng, ai đã để đồng bào miền núi phải bỏ làng, luồn lách vào rừng sâu? Chính là mũi súng ác độc của lũ giặc ác ôn, tàn nhẫn.

“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.

Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,

Nó vơ hết áo quần trong túi 

Mẹ địu em chạy tót lên rừng 

Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng

Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải 

Bà lòa mắt không biết lối bước đi.”

Kẻ thủ ác, lấy tiếng súng nổ phá tan rừng núi, phá tan cả giấc ngủ của em, chúng lùng sục như những con thú điên cuồng, không tìm thấy chúng lại “đốt đi trơ trụi” từng cái lán, cướp cả những mảnh quần áo đã cũ mèm, ôi ghê tởm sao lũ giặc đớn hèn. Và cũng chính trong sự cướp phá điên cuồng của lũ giặc, hình ảnh người phụ nữ Tày dã hiện lên một cách mạnh mẽ, kiên cường, một tay chèo lái cả gia đình, đó là vẻ đẹp của sự nhạy bén khi “Mẹ địu em chạy tót lên rừng”. 

Bóng lưng gầy yếu của người mẹ trở thành trụ cột của cả gia đình khi mở đường rừng đi trước, lưng địu con nhỏ, tay vẫy con lớn, tay dắt theo cả người “bà lòa mắt không biết lối bước đi”, có thế mới thấy trong khó khăn vô vàn sức mạnh của con người đã được khai phá triệt để. Nhưng liệu có thể trốn như thế được bao lâu, bóng lưng người mẹ sẽ trụ vững được bao lần, lúc này đây lòng căm thù lũ giặc cướp nước, khiến nhân dân phải lầm than đã trở thành nguồn động lực, là sức mạnh to lớn để đồng bào miền núi kiên quyết đứng dậy đấu tranh giải phóng quê hương.

“Làm sao bây giờ: ta phải chống!

Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,

Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây 

Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất 

Cha ơi: cha không biết nói rồi…”

Bởi sự hi sinh mất mát đau thương đang diễn ra ngay trước mắt, khắc sâu vào trong lòng những người dân nơi đây, từng người cha, người anh, người con đang bị bị giặc bắt đi, họ bị đánh đập dã man, nhưng trái tim những con người anh hùng ấy vẫn thét lên những tiếng lòng yêu nước, căm ghét lũ giặc khốn đến tận cùng “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây”. 

Sự nhục nhã, điền cuồng đã khiến lũ Tây ra tay thảm sát những người con của núi rừng Tây Bắc, hình ảnh “Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất/Cha ơi: cha không biết nói rồi…” là hình ảnh đau thương và ám ảnh trong tâm trí người ở lại, đặc biệt nó càng trở nên xót xa khi những hình ảnh hãi hùng ấy lại lọt vào đôi mắt con trẻ, còn gì dã man tàn nhẫn hơn khi đứa trẻ chỉ mới nhận thức được rằng “cha không biết nói rồi”.

“Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?

Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!

Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.

Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im.

Lán anh em rải rác không biết nơi tìm 

Không ván, không người đưa cha đi cất.

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,

Con cởi áo liệm thân cho bố;

Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ

Máu đầy tay, trên mặt nước tràn…

Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn

Băm xương thịt mày, tao mới hả.”

Đau thương phủ xuống để lại một bi kịch xót xa kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, người vợ gầy đau rứt ruột gan vì mất chồng, bên cạnh lũ con thơ dại vừa phải chịu kiếp mồ côi cha không còn ai nuôi dạy, rồi mai này gia đình sẽ trông cậy vào bàn tay ai gánh vác. Nỗi đớn đau càng được bộc lộ rõ trước cảnh đám tang sơ sài của người vừa nằm xuống trước mũi súng độc ác của thằng Tây, không ván đóng hòm, tấm khăn phủ mặt chính là chiếc khăn đội đầu của người vợ bấy lâu, áo liệm là chiếc áo con đã mặc đến cũ mèm. 

Và “Mẹ và con đưa cha đi nằm một chỗ”, người về với lòng đất trong lạnh lẽo, đau thương, người ở lại bàn tay vẫn còn vương dòng máu đỏ, đôi mắt nhòe đi, khuôn mặt tràn nước mắt, còn nỗi đau nào hơn nỗi đau này nữa? Tất cả những nỗi khổ, nỗi gian lao chạy giặc vượt núi băng rừng, cùng những hi sinh mất mát đẫm máu đã tụ lại thành nỗi căm hờn sâu sắc, đến bực này rồi đồng bào ta sẽ không nhẫn nhịn chịu đựng nữa, phải biến nỗi oán hận này thành sức mạnh để giết hết bọn giặc Tây cướp nước “Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn/Băm xương thịt mày, tao mới hả”. 

Và cuối cùng với tinh thần anh dũng, lòng quyết tâm diệt giặc của nhân dân, núi rừng Tây Bắc đã sạch bóng quân thù, những người nằm xuống cuối cùng cũng có thể nhắm mắt, còn người ở lại cuối cùng có thể trở về ngôi làng dấu yêu, vui vầy cuộc sống thanh bình.

“Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang

Dọn láng, rời rừng, người xuống làng 

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm 

Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.

Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.

Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.

Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.

Mặc gà gáy chó sủa không lo,

Ngày hai bữa rau ta có muối.

Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu 

Có bắp xay độn gạo no lâu,

Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,

Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con 

Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng”

Có thể nói 15 câu thơ cuối cùng chính là khung cảnh hồi sinh, vươn dậy mạnh mẽ với sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của con người và mảnh đất Tây Bắc. Người dân miền núi bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, sau bao nhiêu đau thương mất mát, bao lần mưa bom bão đạn, bầu trời Tây Bắc nay đã xanh trở lại, khắp Cao-Bắc-Lạng chỉ có tiếng cười vang, giòn giã, hân hoan niềm vui chiến thắng. 

Họ đã không cần phải ngày ngày chuyển lán, không cần phải vượt đèo băng suối trong rừng sâu chạy giặc, người lớn thì lên nương phát rẫy để chuẩn bị cho một mùa gieo trồng mới, trẻ con ở nhà thì vui đùa vô lo vô nghĩ, thôi không phải giật mình vì tiếng súng nổ quanh đây. Trong đoạn thơ này Nông Quốc Chấn đã tái hiện lại một cách chân thực, tinh tế cảnh sinh hoạt của người dân tộc Tày, giản dị, đơn sơ, nhưng thanh bình hạnh phúc, giống những ngày giặc Pháp chưa đến lùng.

“Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.

Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.”

Hình ảnh mặt trời lên “sáng rõ” đó là tượng trưng cho một khởi đầu mới đầy hy vọng, người con lớn lên theo ánh mặt trời cách mạng mà ra chiến trường, chiến đấu bảo vệ quê hương, cùng lời hứa chân thành, sâu sắc mang đậm âm hưởng của dân tộc miền núi: “Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”.

Đó là niềm tin về một chiến thắng không xa, niềm tin về một một đất hoàn toàn sạch bóng quân thù, nhân dân nơi nơi đều được hưởng cuộc sống yên vui, thái bình, sẽ không còn chết chóc chiến tranh, sẽ không còn giọt nước mắt sinh ly tử biệt nào phải rơi xuống, rồi con sẽ lại về bên mẹ đầy tha thiết, chân thành.

Dọn về làng là một bài thơ hay mang nhiều giá trị hiện thực sâu sắc tái hiện cuộc quá khứ đau thương, hào của dân tộc đồng thời thể hiện niềm vui mừng phấn khởi tột cùng trước tin quê hương được giải phóng, núi rừng Tây Bắc đã không còn phải nghe tiếng súng giặc, đồng thời ca ngợi sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sự hồi sinh, vực dậy nhanh chóng của các tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bào nơi đây sau chiến tranh.

Bài văn phân tích tác phẩm “Dọn về làng” số 1

Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, ông trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc.

Bài thơ “Dọn về làng” được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951, tại Đại hội liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên Tạp chí Châu Âu.

Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng. Mở đầu bài thơ “Dọn về làng” là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin vui, tin mừng chiến thắng:

“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng đầy như củi”.

Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng kìm đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác – tong và Lơ – pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như cũi” đã nói lên thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.

Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kiềm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn. Trên bước đường trở về làng cũ để “sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại:

“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi khe, cay đắng đủ mùi”.

Những lễ tết lâu đời phải “quên đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi”. Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, dịch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:

“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng,

Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi

Nó vơ hết quần áo trong túi”…

Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt và, vai đeo đầy tay nải – Bà lòa mắt không biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man:

“Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất”.

Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:

“Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi chôn cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng.

Con cởi áo liệm thân cho bố,

Mẹ con ẳm cha đi nằm ở chân rừng

Máu đẫm tay, nước tràn đầy mặt…”

Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên:

“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn,

Băm xương thịt mày, tao mới hả”.

Qua đó, ta càng thấy rõ: máu không thể nào dìm được chân lí; súng đạn của quân giặc cướp nước không thể nào khuất phục được nhân dân ta. Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ.

Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng “cười vang”, tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”; có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu:

“Hôm nay, Cao – Bắc – Lạng cười vang,

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng,

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con”.

Cuộc sống hồi sinh, cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con làng bản: “Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá”. Phải nhiều máu đổ xương tan mới có ngọn khói lam chiều đáng yêu ấy. Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ “không” (không biết lối bước đi, cha không biết nói rồi, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người.

Thì ở đoạn hai, điệp ngữ “không” bốn lần xuất hiện để làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – Lạng:

Từ nay không ngập cỏ lối đi.

Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối

Quả trong vườn không lo tự chin, tự rụng

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy thành vũng.

Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công ở phép liệt kê, nêu lên hàng loạt chi tiết rất thực, rất sống để thực hiện niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh của quê hương sau ngày giải phóng. Bốn câu thơ cuối bài là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường đi chiến đấu. Mẹ ở lại hậu phương, con ra tiền tuyến với quyết tâm “đuổi hết” giặc Pháp, giặc Mỹ. 

Hình ảnh “Mặt trời lên sáng rõ” mang hàm nghĩa nói về sự thắng lợi của kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng lên trong lòng người. Lời mẹ dặn biết bao yêu thương thiết tha, đằm thắm. Cuộc lên đường đầy khí thế và dào dạt niềm tin:

“Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”.

Cái hay của “Dọn về làng” là ở giọng thơ mộc mạc bình dị với bao chi tiết chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người bà, người cha, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui giải phóng và hình ảnh quê hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, cảm động đáng yêu.

“Dọn về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca kháng chiến thời chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó là lời ca, bông hoa rừng đẹp và thơm của đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỉ sau, bài thơ vẫn để lại cho chúng ta nhiều xúc động.

About trieunguyen

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *