Top 5 Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 1

Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm “Tự lực văn đoàn”. Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phê bình…Nhưng lĩnh vực thành công nhất của ông là truyện ngắn.Trong những truyện ngắn có khuynh hướng hiện thực cuộc sống của Thạch Lam có thể nói “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm thành công tiêu biểu.Truyện không có những tình tiết hấp dẫn, li kì, gây cấn chỉ xoay quanh sinh hoạt của người dân ở một phố huyện nghèo trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng qua đó Thạch Lam đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Đọc “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy bao trùm lấy câu chuyện là cuộc sống xơ xác, tiêu điều của một phố huyện nghèo. Cuộc sống đó đã được tác giả miêu tả ở một thời điểm hết sức tiêu biểu-thời điểm ngày lụi tàn: “Trống thu không từng tiếng một vang lên”, “phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn”, “ngoài ruộng tiếng ếch nhái kêu rang vọng vào phố chợ..”. Một khoảng không gian mênh mông của đồng ruộng vừa đẹp lại vừa buồn gợi ra trước mắt người đọc.

Trên nền của bức tranh ấy, cuộc sống của người những người dân phố huyện được Thạch Lam miêu tả hết sức đặc sắc: Khi trời nhá nhem tối, mẹ con chị Tí bày cái hàng nước ra dưới gốc cây bàng. Liên dọn dẹp của hiệu tạp hóa rồi cộng sổ tính tiền. Bà cụ Thi đến cửa hàng Liên mua một cút rượu, ngửa cổ uống sạch rồi biến đi lẫn vào trong bóng tối với tiếng cười khanh khách. Đám trẻ con tụ họp chơi đùa trên các thềm nhà. Bác Siêu dọn gánh hàng phở ra bên bếp lửa bập bùng. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, trước cái thau trắng chờ có khách để hát kiếm tiền.

Qua ngòi bút chấm phá tinh tế của Thạch Lam chúng ta thấy cuộc sống ở phố huyện nghèo ấy hiện ra như một thế giới đang hấp hối, tàn lụi. Trong bối cảnh ấy, hai chị em Liên và An cũng như những người dân phố huyện vừa náo nức vừa khắc khoải, mòn mỏi chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về đi ngang qua phố huyện. Đêm nào cũng vậy, khi trời vừa bắt đầu tối thì hai chị em đã thấp thỏm chờ đợi chuyến tàu. Rồi chuyến tàu đến như hằng đêm nó vẫn thường đến với sức hấp dẫn kì lạ đối với hai chị em Liên – An cũng như người dân nghèo của phố huyện.

Tàu đến với tiếng còi và tiếng rầm rộ của bánh xe. Liên dắt em đứng lên để nhìn chuyến tàu vụt qua, chuyến tàu đầy sức hấp dẫn bởi nó tràn ngập ánh sáng. Ở những toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Những toa thuộc hạng sang trọng lố nhố người; đồng và kềnh lấp lánh. Cái nguồn sáng ấy vút qua, biến vào đêm tối để lại những đóm than nhỏ bay tung tóe trên mặt đường…

Chuyến tàu đêm ấy đã khơi gợi lên trong hồn Liên bao biến động. Đó là hoài niệm về Hà Nội thuở xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Đối với Liên, con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Thế giới ấy khác hẳn với thế giới mà Liên đang sống, khác hẳn với vầng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bập bùng trong gáng hàng của bác Siêu…

Nhìn lại toàn bộ câu chuyện, người đọc không khỏi thắc mắc vì sao hằng đêm chị em Liên-An cứ mòn mỏi đợi chuyến tàu đi ngang qua phố huyện? Vì sao hình ảnh con tàu tràn ngập ánh sáng lại dấy lên trong tâm hồn Liên bao biến động? Bởi vì trong cuộc sống thường ngày ở phố huyện xơ xác, tiêu điều ấy, họ không thể tìm đâu ra niềm vui. Cuộc sống diễn ra chung quanh họ hết sức đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị…Chuyến tàu sáng rực đối với người dân phố huyện là hình ảnh của một thế giới khác hẳn, đối lập hoàn toàn với cái thế giới mà Liên và An đang sống – đó là thế giới của văn minh, niềm vui và hạnh phúc.

Từ đó mà ta cũng nắm bắt được vấn đề sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm vào truyện: Đó là khát vọng vươn ra thế giới văn minh, hạnh phúc của những con người nhỏ bé – giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Bên cạnh giá trị về mặt chủ đề, “Hai đứa trẻ” còn nổi bật lên những đặc sắc về nghệ thuật, thể hiện tập trung qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam trong việc tả người, tả cảnh cũng như miêu tả tâm trạng của con người. Gắn liền với nghệ thuật miêu tả là thủ pháp đối lập đã được nhà văn sử dụng hết sức thành công trong truyện. Trước hết là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa tĩnh và động. Thủ pháp đối lập này đã góp phần đắc lực cho Thạch Lam trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đặc sắc và rất tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Qua tác phẩm chúng ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam đối với con người và nhất là những con người nhỏ bé trong xã hội. Chuyện đượm buồn nhưng đó là nỗi buồn cần thiết bởi nó có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 4

Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 -1945. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu cho bút pháp của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ. Câu chuyện thấm đẫm cảm quan trữ tình, bởi vậy tinh thần nhân đạo hiện hữu rất rõ rệt.

Tác phẩm Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, xuất bản năm 1938. Truyện nhưng không có chuyện, chỉ là câu chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo logic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ bé, những cảnh đời đơn điệu hắt hiu. Toàn truyện là những cảm xúc và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện đó trong khoảng thời gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thật tinh tế trong việc diễn tả những rung động của hai đứa trẻ.

Giá trị nhân đạo là một trong những phương diện quan trọng tạo nên giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Với Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo. 

Tác phẩm đưa người đọc vào một bức tranh buổi chiều hoàng hôn chạng vạng nơi phố huyện nghèo. Nơi ấy, hiện lên với những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của những kiếp người nhỏ bé, sống cuộc sống mờ mờ nhân ảnh. Đó là cảnh phiên chợ chiều đã vãn nghèo nàn, tiêu điều cùng hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh. Đó là mẹ con chị Tí bán hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang bò lê nghịch những rác bẩn ven đường … Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày khác, cuộc sống của chị em Liên trôi qua trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi… Niềm mong mỏi cho cả một ngày của hai chị em là cùng thức để chờ đợi chuyến tàu đêm ngóng đợi, háo hức khi đoàn tàu đến bao nhiêu thì nỗi tiếc nuối về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ lại rõ rệt bấy nhiêu.

Miêu tả về số phận của những con người nơi phố huyện, Thạch Lam thể hiện tấm lòng cảm thông, xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh ở phố huyện nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong xã hội cũ; trân trọng trước những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng như chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.

Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn.

Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm giận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Tư tưởng nhân đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm thương xót chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện nhỏ bé. Nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống bởi cuộc sống của họ quá buồn chán, lặp đi lặp lại những điều tẻ nhạt chỉ vì cuộc sống mưu sinh.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có truyện, không có những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều. Nhưng câu chuyện vẫn hấp dẫn người đọc bởi chính mạch tâm tình của nó. Cả truyện được phát triển theo những diễn biến tâm trạng tinh tế, phức tạp của các nhân vật. Từ đó khơi ngợi cho người đọc những xúc cảm thân quen, những nỗi niềm về quá vãng… Cách kể chuyện tâm tình là một sáng tạo riêng của Thạch Lam góp phần tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn, góp phần làm nổi bật tinh thần nhân đạo của truyện.

Nhân vật trong tác phẩm Hai đứa trẻ không được xây dựng là những tính cách điển hình mà được khám phá ở chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện.Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên những ám ảnh trong lòng người: bóng tối bao trùm toàn tác phẩm. Ngoài ý nghĩa tả thực hình ảnh bóng tối rất ám ảnh. Cảnh phố phường chìm trong bóng tối được diễn tả chi tiết khiến người đọc dễ liên tưởng tới xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hấp dẫn người đọc bằng chính vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đã được khám phá, cảm nhận bằng chính ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng của tác giả. Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đượm buồn thể hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ và qua đó, chúng ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ trang trọng trước sự sống.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 5

Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đánh thức trong những tâm hồn mệt mỏi, cam chịu những ước mơ mãnh liệt về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn. Nói cách khác, đó là một lời nhắn gửi: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, con người cũng phải biết khao khát một điều gì đó; hãy cố gắng vượt lên, đừng buông xuôi theo số phận, đừng để số phận chôn vùi, mỗi người có thể là vô danh, song đừng sống vô nghĩa.

Nhân đạo, lòng thương người (biểu hiện cụ thể: thấu hiểu, thông cảm, xót thương, nâng niu, trân trọng,… con người; lên án, phê phán những thế lực chà đạp con người). Trước hết, qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực về cuộc sống mòn mỏi của những con người nơi phố huyện (mẹ con chị Tí, vợ chồng bác xẩm, bác phở Siêu, cụ Thi điên,… đặc biệt là hai chị em Liên và An). Đặc điểm chung của những con người này là phải sống một cuộc sống héo hắt, mòn mỏi trong hiện tại và có những mong đợi mơ hồ về một tương lai xa xôi, gần như vô vọng. Viết về họ, nhà văn đã thể hiện sự cảm thông và xót thương sáu sắc với những kiếp đời tàn.

Tác giả đi sâu thể hiện tâm trạng của hai đứa trẻ, đặc biệt là tâm trạng của Liên, cảnh chờ tàu và tâm trạng của Liên khi chờ tàu. Qua đó, nhà văn thể hiện sự trân trọng, nâng niu một cách trìu mến những niềm vui, niềm hi vọng – dù mong manh – của những con người nơi phố huyện vềmột cuộc sống hạnh phúc.

 Đương thời, các nhà văn khác trong nhóm Tự lực văn đoàn hăng hái viết những tác phẩm đãphá lễ giáo phong kiến, cổ vũ cho tự do hôn nhân, hô hào cải cách xã hội. Các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,… cũng thể hiện tư tưởng nhân đạo khi viết về con người, đặc biệt là người nông dân nhưng đối tượng mà họ hướng tới là những “người lớn”, nhân vật trung tâm của thời đại, với những vấn đề nóng hổi, lớn lao như tình trạng con người bị bần cùng hoá, lưu manh hoầ; con người bị tha hoá bởi đồng tiền;…

Truyện ngắn của Thạch Lam nói chung, Hai đứa trẻ nói riêng đã thể hiện những nét đạc sắc trong tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Đối tượng mà ông hướng tới là những kiếp người nhỏ bé, đặc biệt là những đứa trẻ – những đối tượng tưởng như không phải là nhân vật trung tâm của thời đại. 

Qua tâm trạng của hai đứa trẻ, nhất là tâm trạng của Liên, tác phẩm thể hiện niềm xót thương vôhạn đối với những kiếp người nhỏ bé, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc thực sự, đến trong ước mơ cũng chẳng biết ước mơ gì hơn một chuyên tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện tiêu điều, xơ xác của cuộc đời mình. Ông đã phát hiện và trân trọng những khát khao được đổi đời chính đáng của con người (dù chỉ trong giây lát), nhất là ở những đứa trẻ – những mầm sống nhỏ nhoi đang có nguy cơ bị úa tàn trên mảnh đất cằn cỗi.

Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn đánh thức trong những tâm hồn mệt mỏi, cam chịu những ước mơ mãnh liệt về một cuộc đời đẹp đẽ hơn, có ý nghĩa hơn. Nói cách khác, đó là một lời nhắn gửi: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán, con người cũng phải biết khao khát một điều gì đó; hãy cố gắng vượt lên, đừng buông xuôi theo số phận, đừng để số phận chôn vùi, mỗi người có thể là vô danh, song đừng sống vô nghĩa.

Tư tưởng nhân đạo độc đáo ấy được thể hiện trong một truyện ngắn không có cốt truyện mà cấu tứ như một bài thơ trữ tình, mỗi phần là một đoạn thơ, với những chi tiết được tổ chức không phải để miêu tả sự kiện mà để thể hiện những diễn biến tâm trạng, tình cảm của con người. Thấp thoáng sau các cảnh, các nhân vật là hình bóng của nhà văn – một con người nhân hậu, giàu tình thương, tinh tế, dịu dàng, nhạy cảm với nỗi buồn và cái khổ của những người dân nghèo trong xã hội cũ. 

Tác phẩm kết thúc nhưng còn để lại trong tâm hồn người đọc bao dư vị mơ hồ, man mác mà ấm áp của tình quê hương, đúng như Nguyễn Tuân đã viết: “Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 3

Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 -1945. Những truyện ngắn của Thạch Lam được đánh giá như những bài thơ trữ tình đượm buồn vì vừa đậm chất trữ tình vừa thể hiện cảm quan hiện thực sâu sắc.- Hai đứa trẻ (in trong tập Nắng trong vườn) là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu cho bút pháp của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ.

Giá trị nhân đạo: là một trong những phương diện quan trọng tạo nên giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống (sự thấu hiểu, cảm thương, trân trọng, bất bình… ). Với Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo.

Tác phẩm đưa người đọc vào một bức tranh liên hoàn (từ buổi chiều hoàng hôn chạng vạng đến đêm khuya) nhằm khắc họa cuộc sống buồn tẻ, tù đọng nơi phố huyện nghèo. Nơi ấy, hiện dần lên những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của những kiếp người nhỏ bé, sống cuộc sống mờ mờ nhân ảnh. Đó là cảnh phiên chợ chiều đã vãn nghèo nàn, tiêu điều cùng hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh. Đó là mẹ con chị Tí bán hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang bò lê nghịch những rác bẩn ven đường …

Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày khác, cuộc sống của chị em Liên trôi qua trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi… Bởi thế, việc đợi một chuyến tàu đêm – hoạt động khá nổi bật nơi này, dường như đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu, thành một biểu tượng cho những mong mỏi tội nghiệp được thay đổi cuộc sống (cảnh đợi tàu của chị em cô bé Liên được miêu tả khá tỉ mỉ: từ sự ngóng đợi, tâm trạng háo hức khi đoàn tàu đến, nỗi tiếc nuối, dòng mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo khi đoàn tàu đi qua…)

Thạch Lam thể hiện tấm lòng cảm thông, xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh ở phố huyện nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong xã hội cũ; trân trọng trước những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng như chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.

Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn.

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” số 6

Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và lấy  từ những chân cảm với đời, với những con người ở tầng lớp nghèo, thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, nhạy cảm trước cuộc sống của mọi người xung quanh. Chính tình cảm và sự quý mến ấy của ông đã giúp ông nhận thức sâu sắc tinh tế, “hai đứa trẻ” là một tác phẩm của Thạch Lam đã làm tái hiện lên hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng mới mẻ, đặc sắc, trỗi dậy được những rung động cực điểm trong tâm hồn bao thế hệ bạn đọc.

Tác phẩm Hai Đứa Trẻ được in trong tập “nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, chuyện nhưng không có chuyện chỉ là câu chuyện tâm tình, câu chuyện không phát triển theo lôgic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi Phố huyện nghèo, hẻo lánh, với những con người nhỏ bé, những cảnh đơn điệu, hắt hiu….Phải chăng câu chuyện ấy cũng chính là câu chuyện đời tác giả – một cuộc đời buồn Giản dị mà tâm hồn sâu sắc. 

Sinh ra tại Hà Nội nhưng thủa nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại, ở phố Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Đó là một Phố huyện nghèo, hẻo lánh tiêu điều mà suốt thời thơ ấu ông đã ở đó cùng một người chị gái, sống những năm tháng buồn tẻ lay lắt, nhạt nhòa. Có lẽ truyện ngắn “hai đứa trẻ” chính là một trong những nhật ký về quãng thời gian Thạch Lam sống ở đây, nên ông mới thấu hiểu được nỗi khổ của những kiếp người nhỏ bé như vậy, từ đó vẽ nên một bức tranh Phố huyện U buồn tĩnh mạch, để thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực một cách sâu sắc.

Trước hết giá trị hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh Phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quấn quanh bế tắc, đó chính là hình ảnh khái quát đầy đủ cái tăm tối chật hẹp của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Bức tranh đời sống Phố huyện mở ra bằng một cảnh chiều tàn với những âm thanh quen thuộc của đồng quê, bắt đầu bằng tiếng trống thu không vang vọng như đang gọi “chiều chiều rồi” một chiều êm ả như ru vắng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, theo gió nhẹ đưa vào, hòa vào đó là tiếng muối kêu thật gợi buồn, lại một buổi chiều nữa mà Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời lụi tàn, đỏ rực như lửa cháy khiến những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, tiếp đến là những lũy tre làng đen lại vòi cắt hình rõ rệt trên nền trời, cảnh thiên nhiên Phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi mùi ẩm mốc bốc lên, hòa với hơi nóng của ban ngày, lẫn với cát bụi…. 

Với hai chị em Liên đó là mùi riêng của đất, mùi quê hương bình dị quen thuộc bên âm thanh mờ nhạt và thưa thớt, đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng hoa bàng rụng xuống trên tay khe khẽ từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng đen sẫm hơn nữa, bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó những điểm sáng le lói lập lòe yếu ớt của đàn đom đóm một  đốm sáng lờ mờ của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những hột sáng nhỏ nhoi, lọt qua bên cửa, rồi gian hàng chị em Liên….. 

Những đốm sáng trong đêm tối ấy phải chăng là biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé vô danh sống cuộc sống leo lét, vất vưởng trong Đêm tối của xã hội cũ và chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những hạt cát cuộc sống. Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh buồn tẻ nơi Phố huyện nghèo, đó là gia đình chị Tý ngày mò cua bắt tép, tối dọn hàng, dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài Của chị chỉ có một chõng hàng, hay đó là bà cụ Thi điên với điệu cười khanh khách, đau khổ, là bác Siêu với gánh phở xa xỉ, gia đình bác Sẩm với điệu đàn bầu run bần bật.

Và cuối cùng là hai chị em Liên  chính là mảnh đời đáng thương nhất, có tâm hồn đặc biệt nhạy cảm nên chúng sớm nhận ra nhịp điệu buồn tẻ của cuộc sống nơi Phố huyện. Chừng ấy mảnh đời kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, một xã hội sa sút tiêu điều, tồi tệ, một xã hội “đang nổi váng lên” đó là một xã hội với những hình nhân biết cử động. Trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu “Tỏa Nhị Kiều” họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt, như tàu không đổi chuyến những kiếp người quẩn quanh đó đã đi sâu vào trong thơ của Huy Cận

“quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu

tới hay lui vẫn bẳng ấy mặt người

vì quá thân nên quá đỗi buồn cười

mà nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”

(quanh quẩn)

Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực. Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen thuộc bình lặng nhưng lẫn khuất leo lét trong bóng tối tính mịch để làm nên một bức tranh hiện thực thật khó quên.

Đọc xong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, Ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp, bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải chứng kiến những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa một tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Tư tưởng nhân đạo ấy trước hết là toát lên từ niềm xót thương chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu hắt hiu nơi Phố huyện nhỏ, nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô cùng trong cái ao đời phẳng lặng, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống. Từ gia đình chị Tý ngày nào cũng mò cua bắt ốc, tối dọn hàng cứ đều đều như thế dù chẳng kiếm được là bao, bác Siêu với gánh phở của mình, hy vọng sẽ kiếm được chút gì đó để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Nhưng ở nơi Phố huyện này phở là một món hàng xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế là rất cao. Bác Sẩm dùng lời ca tiếng hát để kiếm sống nhưng ở nơi cái ăn còn chẳng có thì người dân nghèo lấy đâu ra tiền để thưởng thức âm nhạc.

Vì vậy cái nghèo đã luôn rình rập quanh gia đình bác, đây chính là điển hình cho những cuộc đời lay lắt, ngoi ngóp nơi Phố huyện, đó chỉ là sự  cầm chừngm sự tồn tại trong vô vọng chứ không phải sự sống thực, phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa. Khi ta bắt gặp hình ảnh cụ Thi điên, cụ chỉ đủ tiền để mua một ngụm rượu uống một hơi cạn sạch. 

Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo, với tiếng cười khanh khách lan vào trong bóng đêm và cuối cùng là hai đứa trẻ chính là Liên và An, chúng còn nhỏ nhưng đã phải thay mẹ quán xuyến cửa hàng, hơn nữa chúng còn có một tuổi thơ tươi đẹp nơi Hà Nội rực rỡ ánh đèn. Tất cả họ từ chị em Liên đến mẹ con chị Tí, gia đình bác Sẩm,Bác Siêu, cụ Thi điên đều tồn tại trong một nhịp sống trẻ, cuộc sống bế tắc với những công việc tẻ nhạt, buồn chán lặp đi lặp lại. Ngày nào cũng vậy chiều nào cũng thế, đem ra rồi lại dọn vào , gánh đi rồi lại

gánh về. Đọc và thấu hiểu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt sống bằng phẳng như Nam Cao nói trong Sống Mòn “Cuộc sống cứ mòn đi, đổ ra,bốc lên”…Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy tác phẩm của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam với các tác giả khác như Xuân Diệu với khát vọng sống có ý nghĩa

“ Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”

Không chỉ dừng lại ở sự xót thương với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện, Thạch Lam dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một tia hy vọng, một ước mơ cháy bỏng. Ánh Sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát một cuộc sống có ý nghĩa hơn dẫu chỉ là trong mơ, chừng ấy con người khi đêm đã về khuya nên vẫn thao thức không ngủ cho tới khi nghe tiếng còi xe lửa ở đâu đó vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi, Liên đã kêu lên “Dậy đi An! Tầu đến rồi”. 

Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông, giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt mang theo bao ước mơ và hoài bão, đi tới nơi nào chẳng rõ nên hai chị em Liên vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh leo lét trên toa sau cùng xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre, mà Liên vẫn cứ lặng theo mơ tưởng, dường như Liên đang nhấp nhói trong lòng một ước ao đổi đời, một cuộc sống hiện tại vẫn nhen nhóm một niềm tin hi vọng, một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng hơn như những ngày ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường trong mơ, nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến. Ánh mắt của cô bé cứ đắm chìm mãi vào cõi mơ, tưởng như nghĩ về quá khứ về tương lai và hiện tại, quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ nhạt, mong manh, còn hiện tại thì ngập bóng tối…. 

Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân đạo của của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thấu hiểu được. Với chị em Liên chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ Là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tươi sáng nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kỳ, nó như một ánh hào quang, một vệt sáng rồi tắt dần xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao đây vẫn là một niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi nỗi buồn tẻ nhạt của hiện tại, để hai chị em Liên chìm vào trong giấc ngủ sau một ngày buồn tẻ.

Đọc xong truyện ngắn hai đứa trẻ ta có cảm giác như được đọc một bài thơ trữ tình đượm buồn, bởi qua tâm trạng của hai chị em Liên, ta rất dễ nhận ra một tiếng nói tâm tình thầm kín nhẹ nhàng, nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc, qua đó ta còn thấy người được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ qua việc thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực một cách mới mẻ đặc sắc, với sự kết hợp hài hòa giữa hai giá trị lớn này truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc.

About trieunguyen

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *